Bức tranh toàn ngành ngân hàng Việt Nam sẽ ra sao trong năm 2017?

Mới đây công ty chứng khoán ngân hàng ngoại thương (VCBS) công bố báo cáo nghiên cứu tiềm năng và triển vọng ngành ngân hàng trong năm 2017.


Ảnh minh họa

Với những thành tích như nợ xấu đưa về dưới mức 3%, lãi suất ổn định và duy trì mức thấp để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế,… bức tranh toàn ngành được VCBS phác thảo có cả những điểm sáng và tối.
Mặt bằng lãi suất chịu áp lực tăng, dù NHNN vẫn duy trì định hướng lãi suất thấp

Mặc dù NHNN vẫn hướng tới mục tiêu lãi suất thấp hỗ trợ tăng trưởng kinh tế cho năm 2017, tuy nhiên VCBS cho rằng mục tiêu này có thể gặp nhiều thách thức.

Lãi suất huy động chịu áp lực tăng do: (1) Lạm phát được kỳ vọng tăng dần khi giá hàng hóa, nguyên liệu cơ bản đã tạo đáy và đi lên từ năm 2016; (2) Nhu cầu tăng lãi suất huy động để đảm bảo chỉ tiêu an toàn sau thông tư 06 của các ngân hàng.

Tính đến hết Quý 3, tại nhiều ngân hàng tỷ lệ huy động trên cho vay (LDR) vẫn vượt quá 80% theo quy định như là VIB (89%), TienPhong Bank (83%), SHB (83%), VietinBank (96%), BIDV (90%), Việt Á (87%),…; tỷ lệ nợ trung dài hạn cao hơn 50% như là EximBank (65%), Maritime Bank (70%), Sacombank (62%), TechcomBank (70%), VPBank (74%)…

Trước áp lực tăng lãi suất huy động như trên, lãi suất cho vay khó có thể giảm theo mục tiêu NHNN. Lưu ý rằng chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động tại các ngân hàng đã giảm rất mạnh trong khoảng 3 năm trở lại đây và thấp hơn khá nhiều so với các nước trong khu vực. Chênh lệch lãi suất huy động – cho vay càng nhỏ, các ngân hàng có biên lợi nhuận càng mỏng nên càng ít động lực để giảm lãi suất cho vay.

Thí điểm Basel II là trọng tâm ngành trong năm 2017. Để đảm bảo hệ số CAR theo quy định, các ngân hàng có thể hạn chế tín dụng và đẩy mạnh tăng vốn, từ đó, gây áp lực lên chi phí vốn.

VCBS cho rằng với lộ trình áp dụng Basel II tại 10 ngân hàng lớn từ tháng 9/2017, trọng tâm ngành trong năm tới sẽ xoay quanh kế hoạch này. Trong đó, thành công của kế hoạch sẽ phụ thuộc chính vào khả năng tăng vốn của 3 ngân hàng quốc doanh gồm Vietcombank, BIDV, Vietin bank.

Theo kịch bản tối thiểu nhất, cả 3 ngân hàng chỉ cần tăng vốn vừa đủ mức tối thiểu là 8% thì tổng vốn 3 ngân hàng ngày cần huy động là 25.393 tỷ đồng. Rõ ràng áp lực tăng vốn là rất lớn.

Theo đó, đối với việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel II vào năm 2017, VCBS đưa ra 2 quan điểm như sau: Thứ nhất, do việc tăng vốn gặp nhiều trở ngại, không loại trừ khả năng trường hợp các ngân hàng hạn chế tín dụng để duy trì hệ số CAR, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng tín dụng và lợi nhuận toàn ngành.

Thứ hai, việc tuân thủ được đúng thời hạn NHNN đề ra (9/2017) sẽ là rất thử thách các ngân hàng thí điểm, đặc biệt nhóm 3 NHTMNN, nếu không có các biện pháp hỗ trợ thêm từ cơ quan quản lý. Các biện pháp này có thể là (1) Giãn thời gian áp dụng; (2) Phê duyệt giá bán của VCB phù hợp với mức giá phía đối tác mua đưa ra; (3) Nâng trần sở hữu nước ngoài để thu hút nguồn vốn mới…

VCBS dự báo tăng trưởng tín dụng sẽ giảm trong năm 2017, ước đạt 16%, so với kế hoạch 2018 là 18%.

Cần nhiều thời gian và biện pháp hiệu quả hơn để giải quyết nợ xấu

VCBS đánh giá quá trình giải quyết nợ xấu đã kéo dài nhiều năm mà chưa có biện pháp triệt để. VAMC không được kỳ vọng là một công cụ hiệu quả do hạn chế về nguồn vốn và quyền lực pháp lý. Nguồn lực xử lý nợ xấu chính hiện tại là trích lập lợi nhuận từ các ngân hàng. Nếu tiếp tục biện pháp này (mỗi năm trích lập 80-90 nghìn tỷ), sẽ cần 6-7 năm nữa số dư nợ xấu hiện tại mới xử lý xong.

Trước những tồn tại như trên, xử lý nợ xấu đòi hỏi cả thời gian và nỗ lực giải quyết từ phía cơ quan quản lý. Theo đó, công ty chứng khoán này không kỳ vọng sự cải thiện đáng kể về quá trình nợ xấu trong thời gian ngắn, cụ thể là năm 2017. Điểm tích cực (tuy hạn chế) ở thời điểm hiện tại là sau quá trình hợp nhất hoặc tự tái cơ cấu, số dư nợ xấu tập trung chính trong 1 nhóm ngân hàng mà VCBS theo dõi, nợ xấu tại 7 ngân hàng chiếm tới trên 50% tổng nợ xấu toàn hệ thống. Đây là môi trường thích hợp để NHNN khoanh vùng xử lý để tránh các tác động mang tính hệ thống lên toàn ngành.

Trước những tồn tại như trên, xử lý nợ xấu đòi hỏi cả thời gian và nỗ lực giải quyết từ phía cơ quan quản lý.

Làn sóng các ngân hàng niêm yết năm 2017

Theo quy định của Thông tư 180/2015/TT-BTC, trong vòng 1 năm kể từ ngày thông tư này có hiệu lực thi hành, các công ty đại chúng phải hoàn tất thủ tục đăng ký trên hệ thống Upcom. Theo đó, dự kiến số lượng các ngân hàng niêm yết sẽ được gia tăng đáng kể. Diễn biến thời gian gần đây cho thấy nhiều ngân hàng đã có động thái chuẩn bị lên sàn như: Techcombank, Tpbank, VIB, Kienlongbank, OCB.

Trong số các ngân hàng chuẩn bị niêm yết, một số ngân hàng là TMCP tư nhân quy mô lớn, hiệu quả hoạt động cao và cơ cấu thu nhập năng động như Techcombank, VPBank, VIB. Việc nhiều ngân hàng niêm yết trong năm tới, một mặt, giúp minh bạch hóa hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung. Mặt khác, giúp cho các nhà đầu tư có thêm nhiều lựa chọn về cổ phiếu ngân hàng.

Bức tranh toàn ngành tiếp tục chứng kiến sự phân hóa

Như đã trình bày trước đó, biện pháp chính để xử lý nợ xấu hiện nay là các ngân hàng tự xử lý, đặc biệt thông qua trích lập dự phòng. Năm 2017 là năm thứ 3 các ngân hàng thực hiện trích lập 20% giá trị trái phiếu đặc biệt sau khi bán nợ cho VAMC. Theo đó, các ngân hàng có số dư trái phiếu đặc biệt lớn tiếp tục chịu ảnh hưởng tiêu cực từ chi phí dự phòng. Ngược lại, 1 số ít có chế độ quản trị rủi ro tốt và đã quyết liệt xử lý nợ quá khứ sẽ giảm trích lập và đi lên.

Kể từ năm 2011 đến nay, tỷ lệ chi phí dự phòng so với lợi nhuận trước trích lập toàn ngành có xu hướng tăng, nhưng bắt đầu tăng chậm lại từ năm 2016 do 1 số ngân hàng đã cơ bản xử lý xong nợ quá khứ, giảm trích lập và tạo sự phân hóa so với các ngân hàng còn lại. VCBS cho rằng diễn biến này sẽ tiếp tục trong năm 2017, bức tranh toàn ngành chi phối bởi sự phân hóa.

Theo Trí Thức Trẻ