Xu thế quản lý triển vọng nhất

Thập kỷ đầu tiên thế kỉ XXI đánh dấu sự ra đời và phát triển của không ít ý tưởng mới về quản trị kinh doanh. Nitin Nohria, hiệu trưởng trường kinh doanh Harvard và một số đồng nghiệp chia sẻ những suy nghĩ của mình xung quanh những xu thế mới về quản trị.

Nitin Nohria – Hiệu trưởng trường kinh doanh Harvard
Chính quá trình toàn cầu hóa, nhờ sự thúc đẩy của công nghệ đã và đang có ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động kinh doanh và đương nhiên ảnh hưởng đến cả đời sống xã hội. Nếu như kinh tế, xã hội Châu Âu thống trị thế kỉ 20 thì nay một thế kỉ mới mở ra với xu hướng toàn cầu hóa, trong đó không một Quốc Gia hay khu vực nào có được lợi thế tuyệt đối.
Thay vào đó, chúng ta thấy một sân chơi chung với nhiều đối thủ cạnh tranh, bao gồm các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ, hay Brazin. Đương nhiên danh sách này còn dài thêm nữa. Chính quá trình toàn cầu hóa và mạng lưới kết nối nhờ công nghệ đã khiến cho các sự kiện kinh tế không còn đứng riêng lẻ nữa, và nhưng tác động rõ ràng, mạnh mẽ nhất chính là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và các cuộc biểu tình, nổi dậy ở Ai Cập và Tuy-ni-di.
Nhìn về tương lai, chúng ta thấy các hoạt động kinh doanh toàn cầu có rất nhiều triển vọng. Tuy nhiên chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều thách thức xã hội nghiêm trọng, mà nếu không được giải quyết khéo léo, không ngoan thì cơ hội kinh doanh sẽ bị hạn chế rất nhiều.
Trong thập kỉ tiếp theo, tôi tin rằng công tác nghiên cứu ở trường kinh doanh Harvard sẽ được định hướng với mục tiêu áp dụng các nguyên tắc quản lý để giải quyết các vấn đề xã hội phức tạp, ví dụ như việc cân bằng an ninh năng lượng với đảm bảo một môi trường bền vững.

Teresa Amabile – Giáo sư quản trị kinh doanh, trường kinh doanh Harvard
Trong thập kỉ qua, không phải cái gì khác mà chính là công nghệ thông tin đã có tác động to lớn và sâu sắc đến quản lý kinh doanh. Cách đây 10 năm, nhiều người trong chúng ta dù hoạt động kinh doanh, học thuật hay tham gia chính trị đều tự hỏi không biết công nghệ thông tin sẽ đi về đâu. Bong bóng công nghệ đã nổ tung, mặc dù có nhiều ngành sống sót nhưng tương lai của thương mại điện tử và các ngành công nghệ thông tin dường như rất mù mịt.
BusinessWeek.com mới đây đã đưa Amazon vào vị trí thứ 6 danh sách các công ty có nhiều đổi mới nhất. 4 trong số 5 công ty đứng đầu là các công ty máy tính và internet. Dưới nhiều hình thức khác nhau, công nghệ thông tin hiện nay đã đóng góp trong xây dựng chiến lược kinh doanh hay quản lý tổ chức. Sản phẩm được phát triển thông qua hàng loạt đổi mới, cải tiến với đầu vào là con người được kết nối với nhau và kết nối với công ty thông qua mối quan tâm chung và các phương tiện truyền thông điện tử.
Hầu như tất cả các công ty, kể cả những công ty nhỏ nhất, mới thành lập cũng đều xây dựng trang web riêng. Các công ty dựa vào internet như Google thì ghi lại mỗi click chuột của mỗi khách hàng, phân tích dữ liệu nhằm liên tục cải thiện sản phẩm và hiệu quả tiếp thị của công ty. Khách hàng được quản lý, và chuỗi cung ứng hàng hóa cũng được quản lý qua trang web và thư điện tử. Các quá trình tiếp thị, sản xuất và phân phổi sản phẩm thì được quản lý bởi hệ thống thông tin trong thời gian thực tinh vi, phức tạp.
Cộng sự, đồng nghiệp thì có thể trò chuyện và nhìn thấy nhau mà không cần thiết phải gặp mặt. Các bài báo, bài viết có thể được xuất bản mà không cần đến giấy mực, điện thoại di động thì thực hiện chức năng thông tin và giải trí thường xuyên hơn là chức năng đối thoại và liên lạc. Các thông tin về những đổi mới, cải tiến trong tất cả các lĩnh vực đều được cung cấp kịp thời.
Tất cả những ví dụ trên và rất nhiều thay đổi khác nữa đều nhờ đến sự phát triển vũ bão của công nghệ thông tin. Nó đã thay đổi bản chất hoạt động kinh doanh, thông qua chuyển đổi cơ chế thị trường, thúc đẩy cạnh tranh và hợp tác quốc tế, thay đổi các quan niệm, các giá trị, động lực, và thay đổi cả những điều mà người tiêu dùng và lao động lo sợ. Có lẽ, điều quan trọng nhất là công nghệ thông tin đã thay đổi xã hội loài người, hứa hẹn thập kỉ tới sẽ diễn ra những sự kiện và biến đổi chưa từng có, và không thể đoán trước.
Theo quan điểm của tôi, tâm lý học chính là lĩnh vực nhiều triển vọng nhất để khai thác trong nghiên cứu kinh doanh thập kỉ tiếp theo. Bằng cách tìm hiểu và nắm rõ nhận thức, cảm xúc, động cơ và hành vi của con người, các nhà quản lý có thể đáp ứng những nhu cầu mà trước đó bị bỏ quên, xem nhẹ một cách chính xác nhất với những sản phẩm và dịch vụ hiệu quả.
Các nhà quản lý có thể điều chỉnh phương thức tiếp thị các sản phẩm và dịch vụ này một cách linh hoạt để phù hợp với thị hiếu, sở thích, và nguyện vọng của mỗi Cá nhân trong xã hội. Họ có thể đưa ra các giải pháp và khuyến khích mọi người tham gia hợp tác, cũng như để nguồn thông tin đa dạng được tiếp cận mọi lúc mọi nơi.
Họ cũng có thể thu hút, giữ chân, phát triển và thúc đẩy nhân viên một cách hiệu quả hơn, tạo ra các đội làm việc hiệu quả, xây dựng những dự án mà họ quan tâm và phù hợp với kĩ năng và tăng khả năng sáng tạo trong công việc.
Chúng tôi, những nhà nghiên cứu tâm lý học đã có nhiều công cụ hơn, những thứ mà cách đây ít năm chúng tôi chỉ dám mơ tưởng, từ những phương pháp thần kinh học, tâm lý học khiêm tốn cho đến nguồn cơ sở dữ liệu khổng lồ liên quan đến quyết định tiêu dùng, tiết kiêm, đầu tư của hàng triệu người.
Khi mà các nghiên cứu kinh tế ngày càng liên quan nhiều đến các lý thuyết và phương pháp tâm lý học, thì các giáo sư và các nhà quản lý kinh doanh sẽ có nhiều lợi thế và sức manh hơn để cải thiện đáng kể các hoạt động kinh doanh và phúc lợi xã hội.

Carliss Y. Baldwin. Giáo sư quản trị kinh doanh, trường kinh doanh Harvard
Có hai xu hướng có tác động mạnh mẽ nhất tới quản lý kinh doanh trong thập kỉ qua là (1) Sự phát triển của “hệ sinh thái kinh doanh” (business ecosystem) nhờ chi phí giao dịch giảm và (2) sức mạnh của người tiêu dùng nhờ sự lan rộng toàn cầu của công nghệ truyền thông.
Hệ sinh thái kinh doanh bao gồm những nhóm các công ty cùng cung cấp các sản phẩm tổng thể và các dịch vụ liên quan đến người dùng cuối, ví dụ như hệ sinh thái viễn thông và máy tính, hệ sinh thái y tế, hệ sinh thái tài chính toàn cầu.
Trong thập kỉ vừa qua, hệ sinh thái kinh doanh nổi lên như một hình thức tổ chức kinh tế quan trọng, thay thế cho các công ty liên kết theo chiều dọc, phổ biến trong thời đại sản xuất hàng loạt. Điều quan trọng ở đây, chính Internet và các phương tiện truyền thông khác đã giảm bớt chi phí cho các hoạt động tập thể, giao tiếp. Do đó, người sử dụng đóng vai trò ngày càng chủ động hơn, cùng tham gia thiết kế, quản lý sản phẩm và dịch vụ mà họ tiêu dùng. Trong nhiều trường hợp, nhiều người cộng tác đã tranh giành quyền sỡ hữu trí tuệ với nhà sản xuất hay kiểm soát các tiêu chuẩn, và quá trình đổi mới.
Với những phát triển trên, đã đến lúc những cải tiến chủ yếu không còn là công lao của các thiên tài sáng chế, hay các tập đoàn biết nhìn xa trông rộng nữa. Trong các hệ sinh thái kinh doanh, sáng kiến, đổi mới ra đời và tiếp diễn theo nhiều cách khác nhau, không giống như trong các nền kinh tế tiền công nghiệp hay các tập đoàn ưu tú.
Cải tiến trong hệ sinh thái kinh doanh đòi hỏi hoạt động tập thể từ khâu sáng tạo, đánh giá; đòi hỏi các luồng kiến thức xuyên tổ chức hiệu quả, cấu trúc mô đun (modular architectures) và quản lý tốt hệ thống pháp lý. Điều này phải dựa trên nhiều nền tảng bổ sung. Quyền sở hữu trí tuệ cần được xác định, tuy nhiên yêu cầu này không khắt khe lắm. Và điều cuối cùng đó là ý thức của các bên tham gia, cả người dùng và nhà sản xuất phải cùng hướng đến mục tiêu chung.
Khi các bên tham gia không nhìn thấy hay ý thức được trách nhiệm của mình đối với tập thể, thì một hệ sinh thái kinh doanh năng động dễ rơi vào tình trạng bất ổn, giống như trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009, hay thậm chí là sụy đổ như tình trạng của Internet năm 1999-2000. Do đó, trong thập kỉ tiếp theo, việc nghiên cứu, tìm hiểu cơ cấu và động lực học của hệ sinh thái kinh doanh sẽ mang lại nhiều hẹn cho các công tác nghiên cứu học thuật.

Theo Lê Thị Ly – Duy Tuyên