Điều gì tạo nên những người xuất chúng?

Tăng tốc đến thành công là quyển sách giúp độc giả đọc nhanh 25 đầu sách kinh doanh đắt giá của các tác giả trên thế giới. Những bài học kinh doanh cốt lõi, có giá trị được tác giả tóm tắt một cách sinh động, rõ ràng và thông minh trong cuốn sách này.
ảnh minh họa
Dưới đây là trích đăng một phần nội dung cuốn sách:

Outliers – The Story of Success cung cấp cho chúng ta một cách nhìn khác và toàn diện hơn về những nguyên nhân thành công của những người xuất chúng.
Những yếu tố thông thường mà chúng ta biết: chỉ số thông minh, tài năng, sự quyết tâm… chỉ mới lý giải cho 50% của sự thành công của những người xuất chúng.
50% còn lại nằm ở những yếu tố hoàn toàn khác, tưởng như không liên quan, như: hoàn cảnh gia đình, sự giáo dục của gia đình và trường học, môi trường sống, hoàn cảnh sống, truyền thống và di sản họ nhận được, các cơ may đến với họ, và đặc biệt là số giờ họ làm việc, luyện tập cho chuyên môn nghề nghiệp của họ.
Tác giả Malcolm T.Gladwell là nhà báo, diễn giả, và tác giả người Canada. Ông hiện là phóng viên tờ The New Yoker. Tất cả 5 cuốn sách ông viết – trong đó có hai cuốn nổi tiếng “Điểm bùng phát” và “Trong chớp mắt” – đều nằm trong danh sách sách bán chạy.
Tóm lược nội dung cuốn Outliers – The Story of Success:
Tài năng bị lãng phí và hiệu ứng mathew giúp củng cố, phát triển những tài năng may mắn
Xem kỹ danh sách các thành viên đội bóng khúc côn cầu Meducunne Hat – một đội chơi ở giải Major Junior A của Canada – người ta thấy có đến 17 trong tổng số 25 cầu thủ trẻ được sinh từ tháng 1 đến tháng 4 của năm. Điều gì xảy ra đối với các cầu thủ sinh vào những tháng còn lại?
Lý do hết sức đơn giản đã được tìm ra. Ở Canada, việc ngắt ngày để tuyển lựa cho đội ngũ khúc côn cầu theo lứa tuổi là ngày 1/1 của mỗi năm. Đứa bé lên 10 vào các tháng 1, 2, 3 sẽ được chọn dự tuyển cùng với những đứa bé khác sinh tháng 10, 11, 12 trong năm.
Vào lứa tuổi vị thành niên, sự chênh lệch mấy tháng tuổi có thể tạo ra sự khác biệt to lớn về mức độ trưởng thành thể chất của các em. Chính vì thế các em sinh vào các tháng 1, 2, 3 lớn con hơn, biết cách phối hợp hơn thường được lựa chọn sau những cuộc thi tuyển này. Và khi đã được lựa chọn, những cầu thủ trẻ này được huấn luyện tốt hơn, có đồng đội tốt hơn, được thi đấu giải và cọ xát nhiều hơn so với các em không được chọn.
Vì thế, khi lên đến 13, 14 tuổi – tuổi dự thi vào giải Major Junior A – khoảng cách năng lực thi đấu giữa các cầu thủ này và các cầu thủ sinh ở các tháng cuối năm (5-12) càng khác biệt. Điều đó giải thích tại sao có nhiều tuyển thủ trẻ sinh ra từ tháng 1 – 4 trong các đội tuyển Major Junior A của Canada.
Rõ ràng các tài năng nhí sinh vào tháng 1 – 4 đã có một cơ may – được lựa chọn và phát triển – hơn hẳn các bạn sinh cùng năm nhưng vào các tháng khác.
Việc tương tự đã xảy ra ở môn bóng chày Mỹ. Ở môn bóng đá của Anh, do ngày lựa chọn là ngày 1/9, số tuyển thủ sinh từ tháng 9 đến tháng 11 chiếm đa số.
Hai nhà kinh tế học Kelly Bedard và Elizabeth Dhuey đã xem xét mối quan hệ giữa tháng sinh và điểm thi môn toán của học sinh theo dữ liệu của TIMSS, chương trình kiểm tra diễn ra 4 năm một lần tại nhiều nước trên thế giới. Họ nhận thấy ở các em học sinh lớp 4, những em tháng tuổi lớn hơn có điểm số cao hơn khoảng 4-12% so với những em nhỏ hơn.
Ở những ví dụ trên, sự lựa chọn “thiên vị” – dù khách quan – đã làm sai lệch kết quả lựa chọn tài năng. Những tài năng may mắn được lựa chọn có nhiều điều kiện tốt hơn để trở nên tài giỏi hơn.
Trong những ví dụ trên, những tài năng đã được lựa chọn được dạy dỗ, rèn luyện và có nhiều điều kiện thuận lợi khác để trở nên tài giỏi hơn. Những tài năng không được lựa chọn thì ngày càng bị mai một.
Do đó, những tổ chức tìm kiếm tài năng, những nhà hoạch định tương lai cần phải phát triển những cách lựa chọn khoa học và công bằng, giảm tối đa những lựa chọn thiên vị khách quan, để khỏi lãng phí tài năng.
Quy tắc 10.000 giờ – Không thể xuất chúng nếu không có đủ 10.000 giờ làm việc
Đầu những năm 1990, nhà tâm lý học K.Anders Ericsson và hai đồng nghiệp tại Học viện Âm nhạc Berlin đã tiến hành một cuộc nghiên cứu về tài năng đối với các sinh viên chơi violin của học viện.
Họ phân các sinh viên này thành 3 nhóm: Nhóm đầu tiên bao gồm các sinh viên có tiềm năng trở thành nghệ sĩ solo đẳng cấp thế giới; nhóm thứ hai là các sinh viên được đánh giá tốt; nhóm thứ ba là chơi không tốt và có ý định trở thành giáo viên âm nhạc trong hệ thống trường công.
Các nhà nghiên cứu đã tìm ra sự khác biệt đặc trưng của 3 nhóm này, đó là số giờ họ luyện tập.
Các sinh viên trong nhóm thứ nhất trung bình luyện tập 10.000 giờ, nhóm thứ hai 8.000 giờ, và nhóm thứ ba là 4.000 giờ.
Ông Ericsson và đồng nghiệp cũng tìm ra kết quả tương tự đối với các nghệ sĩ dương cầm chuyên nghiệp.
Để được vào một trường âm nhạc đỉnh cao, tất cả những nghệ sĩ tiềm năng đều phải đạt mức tài năng cần thiết, và để thành công vượt bậc, tức là trở thành nghệ sĩ trình diễn chuyên nghiệp, họ phải đạt ít nhất 10.000 giờ luyện tập. Không đủ 10.000 giờ luyện tập thì dù nghệ sĩ đó có tài năng đến đâu cũng không thể trở thành một nghệ sĩ trình diễn chuyên nghiệp.
Nhiều nghiên cứu khác nhau về người xuất chúng trong các lĩnh vực soạn nhạc, bóng rổ, viết tiểu thuyết, trượt băng, cờ vua , và cả những tên tội phạm lão luyện… đã cho kết quả giống nhau đến khá kinh ngạc về con số 10.000 giờ luyện tập.
Để một người đạt cấp độ tinh thông và có khả năng trở thành chuyên gia đẳng cấp thế giới trong bất kỳ lĩnh vực nào, họ cần làm việc ít nhất 10.000 giờ.
Bill Joy – được so sánh như Edison của Internet – là một trong những người có ảnh hưởng nhất trong lịch sử ngành máy tính hiện đại. Ông đồng sáng lập công ty Sun Microsystem và là người viết lại phần mềm Unix và Java. Trước khi tỏa sáng, Bill Joy đã có cơ may tập luyện lập trình tại trường Michigan và sau đó là Berkeley. Nhờ học tại trường Michigan nơi có hệ thống máy tính hiện đại vào năm 1971, cũng như phát hiện được lỗi tính tiền của hệ thống này, Bill Joy – người sinh viên giỏi toán – đã có cơ hội tập luyện lập trình ngày đêm. Ông xác định tổng số giờ ông đã tập luyện lập trình khoảng chừng 10.000 tiếng đồng hồ.
Người ta đã kể lại, thậm chí thêu dệt nhiều câu chuyện về sự thành công kiệt xuất của Bill Gates, nhưng không phải ai cũng biết rằng một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của Bill Gates và Microsoft là Bill Gates cũng trải qua 10.000 giờ đồng hồ luyện tập lập trình trước khi thành lập công ty phần mềm Microsoft.
Nhờ điều kiện của gia đình, nhờ những cơ may tình cờ mà Bill Gates đã được lập trình trên máy tính trong 5 năm liên tục – từ lớp tám cho đến lớp cuối trung học. Và cho đến khi Bill ra khỏi trường đại học Harvard để bắt tay vào lập công ty phần mềm của mình thì ông đã có hơn 10.000 tiếng đồng hồ lập trình.
Bill Gates xác nhận đó là một cơ may to lớn, và ông cho rằng chỉ khoảng 50 thanh thiếu niên trên thế giới có được 10.000 giờ lập trình khi còn trẻ.
Dù có giỏi, tài năng đến đâu, không ai có thể đi tắt đến sự thành công rực rỡ, đến sự xuất chúng. Con đường mà tất cả những người muốn thành công phải trải qua là 10.000 giờ tập luyện, không thể ngắn hơn.
Những người xuất chúng có được 10.000 giờ luyện tập, không chỉ nhờ vào niềm đam mê to lớn, sự làm việc hăng say của họ, mà còn nhờ vào những cơ may đặc biệt.
Nếu không có cơ may được biểu diễn tại Hamburg, ban nhạc Beatles đã không có cơ hội tập luyện nhiều và trở thành ban nhạc thành công.
Bill Gates cũng đã công nhận mình có một cơ may lạ thường khi được chuyển đến học tại trường tư Lakeside, nơi hiếm hoi có câu lạc bộ máy tính vào thời điểm đó. Nhờ vậy, Bill, một học sinh lớp tám, có cơ hội làm việc nhiều hơn với máy tính cho đam mê lập trình của mình.
Thời thế tạo anh hùng – Vận may của những người xuất chúng
Danh sách 75 người giàu có nhất trong mấy ngàn năm lịch sử của nhân loại – bắt đầu từ John D.Rockeller với số tài sản ước tính hiện nay là 318,3 tỷ đô la Mỹ, Bill Gates thứ 37 với 58 tỷ, Warren Buffett thứ 41 với 52,4 tỷ, Thái tử Al-Waleed bin Talal thứ 75 với 29,5 tỷ đô la Mỹ – có đến 45 người Mỹ, nhưng đặc biệt là có 14 người Mỹ được sinh ra trong khoảng thời gian 9 năm từ 1831 đến 1840. Tại sao thế?
Vào những năm 1860 đến 1870, nền kinh tế Mỹ trải qua cuộc chuyển đổi vĩ đại trong lịch sử. Thời gian này các tuyến đường sắt được xây dựng, phố Wall – thị trường tài chính trỗi dậy, ngành sản xuất công nghiệp phát triển mạnh, những quy luật chi phối nền kinh tế truyền thống bị phá vỡ và được sáng tạo lại.
Những người được sinh ra vào cuối thập niên 1840 còn quá trẻ để nắm lấy cơ hội này. Những người sinh vào những năm trước 1830 thì đầu óc quá “già” vì bị ảnh hưởng bởi mô thức của nước Mỹ thời nội chiến. Cơ hội quý báu này vừa vặn cho những người sinh vào khoảng thời gian 1831 – 1840. Trong 9 năm ấy, có hàng triệu người được sinh ra, nhưng chỉ những người tài năng và có tầm nhìn tốt mới tận dụng được cơ hội vài trăm năm có một này.
Năm 1975, tạp chí Popular Electronics thông báo việc ra đời của máy tính điện tử cá nhân – đánh dấu sự kiện cách mạng trong ngành công nghệ thông tin của thế giới. Thế hệ nào sẽ được hưởng lợi từ cơ hội lớn này?
Đó không phải là những người tài năng ở lứa tuổi 30, 40. Họ đã yên vị với những vị trí khá vững chắc, và đầu óc họ cũng không còn chỗ cho những phát minh công nghệ mới mẻ. Nhưng tài năng ở lứa tuổi trung học cũng không thể làm được điều gì lớn lao vào lứa tuổi đó.
Độ tuổi thích hợp nhất để nắm bắt cơ hội công nghệ thông tin này là những người sinh ra ở độ tuổi 20 vào năm 1975. Đó là Bill Gates – 1955, Paul Allen – 1953, Steve Ballmer – 1956 của Microsoft; Steve Jobs – 1955 của Apple; Eric Schmidt – 1955 của Novel; và Google, Bill Joy – 1954 của Sun Microsystems…
Joseph Flom – người Mỹ gốc Do Thái đã được trường Harvard chấp nhận cho học luật nhờ một bức thư thuyết phục. Tư duy về luật xuất sắc, học giỏi nhất trường nhưng ông không kiếm được việc ở những công ty luật kiêu hãnh ở phố Wall, gồm những luật sư đại diện cho các tập đoàn lớn và danh tiếng. Vì thế ông đã đồng thành lập công ty luật Skadden.
Trong nhiều năm liền, Joseph Flom và công ty luật Skadden của ông – công ty của các luật sư gốc Do Thái – không hội nhập được với thế giới luật sư danh tiếng chuyên mang giày trắng ở phố Wall. Những công việc mà công ty ông nhận được vào những năm 1950 – 1960 là các vụ kiện tụng tranh chấp và đấu tranh ủy quyền mà các hãng luật giày trắng chê.
Cho đến năm 1970, các thương vụ thôn tính sáp nhập ngày càng trở nên phổ biến và nhu cầu pháp lý của các thương vụ này trở thành những sự vụ danh giá. Lúc đó các hãng luật giày trắng mới bắt đầu tham gia vào thị trường này trong khi Joseph Flom và công ty luật Skadden của ông đã đi những bước quá xa.
Càng có kinh nghiệm, Công ty Skadden của Joseph Flom lại càng có cơ hội để nhận thêm nhiều vụ kiện. Họ thành công rực rỡ và trở thành hãng luật danh tiếng bậc nhất thế giới.
Những hoàn cảnh khó khăn ban đầu đã chuyển biến thành vận hội lớn cho Joseph Flom và công ty luật gốc Do Thái của ông. Quan trọng là Joseph Flom đã sẵn sàng để nắm bắt cơ hội và nhờ thế biến bản thân mình từ một kẻ bình thường thành người xuất chúng.
Trí thông minh phân tích (IQ) chỉ là điều kiện cần
Trí thông minh phân tích (IQ) chỉ là điều kiện cần. Những điều kiện đủ khác là trí thông minh thực tiễn, sự giáo dục định hướng của gia đình.
Các nhà khoa học đo được mối liên hệ giữa chỉ số IQ và sự thành công của một người. IQ càng cao người đó càng có nhiều khả năng để thành công. Thế nhưng mối quan hệ này chỉ có tác dụng đến ngưỡng 120. Khi người nào đó đạt mức IQ 120 thì có thêm vào một số điểm hay nhiều điểm IQ vượt trội nữa cũng không chuyển hóa thành bất kỳ ưu thế nào.
Một nhà khoa học với chỉ số IQ 130 có khả năng giành giải Nobel tương đương một nhà khoa học có chỉ số IQ 180. Và một người có chỉ số thông minh cao mà không có những điều kiện “đủ” chưa chắc sẽ thành công.
Vào năm 2008, Chris Langan là người có chỉ số thông minh IQ cao nhất nước Mỹ. Chỉ số IQ của anh là 195, trong khi đó chỉ số của nhà bác học thiên tài Einstein là 150. Anh vượt qua bài thử thách IQ dành cho những người thông minh nhất chỉ với duy nhất 1 câu sai.
Trong chương trình truyền hình Đấu trường 100, anh tự tin đấu trí với 100 người còn lại. Với những câu trả lời lịch sự, gọn gàng, quả quyết, anh đã thắng hết câu này đến câu khác. Cho đến khi đạt được mức thưởng 250.000 đô la Mỹ, anh đột ngột dừng cuộc chơi.
Cái đầu trí tuệ của anh đã tính được xác suất thắng thua trong câu hỏi kế tiếp. Anh đã quyết định dừng và chia tay cuộc chơi ở đỉnh cao.
Tuy vậy, ngoài việc phô diễn, trình bày và kiếm tiền bằng trí thông minh của mình, Chris Langan không phải người thành công trong cuộc sống, càng không phải là người xuất chúng. Anh đang là chủ một trang trại ngựa ở một vùng nông thôn.
Vậy điều gì đã làm cho Chris Langan không được thành công? Anh sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, cơ cực, và không được dạy dỗ một cách bình thường như nhiều đứa trẻ khác. Gia đình và môi trường sống của anh chỉ dạy cho anh cách kiếm sống kiềm chế, thu hẹp chứ không dạy cho anh quyền được làm, quyền theo đuổi sở thích cá nhân, quyền chủ động kiểm soát những mối tương tác chung quanh. Trí thông minh phân tích (IQ) của Chris Langan cao bao nhiêu thì sự thông minh thực tiễn của anh thấp bấy nhiêu.
Theo nhà tâm lý Robert Sternberg, trí thông minh thực tiễn (Practical Intelligence) là năng lực “biết nói điều gì và nói với ai, khi nào, và nói như thế nào để đạt hiệu quả tối đa”. Chris Langan hầu như không có khả năng giao tiếp, thuyết phục người khác và hầu như phải làm mọi việc một mình mà không nhận được sự trợ giúp của người khác.
Cũng có trí thông minh phân tích cao cỡ như Chris Langan, nhưng câu chuyện về Robert Oppenheimer – nhà vật lý người Mỹ góp phần phát minh ra bom nguyên tử cho Mỹ trong Thế chiến thứ 2 – lại là một câu chuyện hoàn toàn khác.
Ông sinh ra trong một gia đình giàu có, và được gia đình áp dụng phương pháp giáo dục “nuôi dạy có tính toán” (converted cultivation). Nhờ đó, cùng với trí thông minh phân tích cao, ông cũng sở hữu trí thông minh thực tiễn ở mức rất cao. Nhờ vậy, ông đủ bản lĩnh để vượt qua những nghịch cảnh trong cuộc sống trong độ tuổi thanh niên.
Ở lứa tuổi trung niên, với tài năng và hai trí thông minh ở mức cao của mình, ông đã quyết phục được ông Leslie Groves để được tuyển dụng vào vị trí Trưởng bộ phận nghiên cứu bom nguyên tử và đạt được thành công rực rỡ.
Vậy cuối cùng cái gì tạo nên những người xuất chúng?
Vận may. Đối với những tài năng nhí thì đó là vận may được sinh ra vào những tháng 1, 2, 3. Đối với 14 tỷ phú người Mỹ đó là vận may được sinh ra trong khoảng thời gian 9 năm từ 1831 đến 1840. Đối với Bill Gates đó là vận may được sinh ra vào đúng giai đoạn 1955 – 1975, và được học đúng trường Lakeside. Đối với luật sư Joseph Flom đó là vận may đến từ làn sóng thôn tính sáp nhập doanh nghiệp.
Nơi xuất thân. Những cầu thủ tài năng, Bill Gates, Robert Oppenheimer được sinh ra trong gia đình có điều kiện và được thừa hưởng sự giáo dục tốt, được phát triển trong một môi trường thuận lợi hơn nhiều người khác.
Trí thông minh giao tiếp và những kiến thức, kỹ năng khác mà những người xuất chúng được thừa hưởng tự sự giáo dục có định hướng từ gia đình.
Làm việc ít nhất 10.000 giờ. Những người xuất chúng có cơ may và niềm say mê để luyện tập, làm việc ít nhất 10.000 giờ đồng hồ cho nghề nghiệp của mình.

Theo DNSG