Nhân viên trong các công ty tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương sử dụng các công cụ mạng xã hội nhiều nhất để nâng cao năng suất
Theo một báo cáo gần đây của Ipsos Public Affairs và Microsoft (*), khoảng 46% nhân viên trong lĩnh vực thông tin cho rằng sử dụng mạng xã hội và các công cụ liên quan giúp họ tăng năng suất làm việc, trong khi 9% nói rằng làm giảm năng suất.
Ngoài ra, 42% nói rằng các công cụ xã hội đã dẫn đến sự hợp tác nhiều hơn tại nơi làm việc, trong khi 39% cho rằng sự hợp tác này không thể có tại nơi làm việc của họ. Nhân viên trong các công ty tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương sử dụng các công cụ mạng xã hội nhiều nhất để nâng cao năng suất, tiếp theo là Mỹ Latin và châu Âu.
Phổ biến tại nơi làm việc
Hầu hết lao động trong lĩnh vực thông tin sử dụng email (93%), các trang web nhóm / mạng nội bộ (58%), tin nhắn tức thời (56%), và hội nghị truyền hình (51%) cho các mục đích chuyên nghiệp.
Mặc dù các mạng xã hội có nhiều tính năng dành cho mục đích cá nhân hơn là làm việc chuyên nghiệp nhưng vẫn đang được sử dụng tại nơi làm việc của gần một phần ba của người lao động (31%).
Theo kết quả Nghiên cứu CEO toàn cầu năm của IBM, những công ty trở nên vượt trội là do đánh giá đúng tầm quan trọng của tính cởi mở, thể hiện ở mức độ sử dụng mạng xã hội – một nhân tố hỗ trợ quan trọng cho sự cộng tác và sáng tạo trong doanh nghiệp. Mức độ sử dụng mạng xã hội của họ cao hơn 30% so với các đối thủ cạnh tranh.
Các công cụ xã hội ít phổ biến tại nơi làm việc gồm mạng nội bộ xã hội (22%), nền tảng blog (17%), tiểu blog (17%), và tập hợp web (14%).
Khuyến khích truy cập
62% nói rằng họ có quyền truy cập vào tất cả các công cụ và công nghệ cần thiết để làm việc, và nhiều công ty khuyến khích nhân viên sử dụng các công cụ xã hội, chẳng hạn như thư điện tử (80%), nhóm các trang web / mạng nội bộ (45%), hội nghị truyền hình (42%) và tin nhắn (38%).
Hơn một phần tư (27%) nói rằng công ty khuyến khích cập nhật tin tức, trong khi 19% nói rằng công ty của họ hỗ trợ công FTP / lưu trữ đám mây.
Lý do hạn chế
Một phần ba (34%) nói rằng quản lý của họ đánh giá thấp những lợi ích của những công cụ này, và hạn chế sử dụng các mạng xã hội bên ngoài (32%), tiểu blog (30%) và nội bộ các mạng xã hội (25%). Thậm chí, ước tính trong năm 2012, mỗi nhân viên ở Nga dành trung bình hơn 53 giờ đồng hồ cho thời gian tán dóc trên các mạng xã hội.
Đặc biệt, nhân viên ngành ngân hàng mất ít thời gian trên internet hơn các cô thư ký. Viện Phân tích chiến lược Nga cho biết, ước tính ở Nga, trong năm 2012, chi phí kinh tế “ngồi” mạng xã hội lên tới khoảng 300 tỷ rúp, tương đương 10 tỷ USD.
Vấn đề bảo mật (68%) và mất năng suất (58%) là hai lý do hàng đầu các công cụ xã hội bị hạn chế. Khoảng một phần tư người sử dụng lao động nói rằng các công cụ xã hội bị hạn chế do lo ngại nguồn nhân lực (28%), lo ngại về hình ảnh công ty (25%) và mất dữ liệu (24%).
(*) Báo cáo dựa trên dữ liệu từ một cuộc thăm dò 9.908 nhân viên trong lĩnh vực thông tin (định nghĩa là những người làm việc tại một công ty có ít nhất 100 nhân viên sử dụng máy tính, máy tính xách tay, máy tính bảng, điện thoại thông minh hoặc ít nhất 75% chức năng công việc của họ) tại 32 quốc gia.
Theo Doanh nhân Sài Gòn/ MarketingProfs, IBM