Căn bệnh thập kỷ của doanh nghiệp Việt ( Phần 1)

“Những sự thay đổi rất thú vị…”

Ông Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung Ương tỏ ra đầy ẩn ý khi được hỏi về nhận định nền kinh tế của Việt Nam trong năm 2013: “Hiện nay, Tôi không dám đoán gì cả nhưng tôi tin kinh tế Việt Nam tiếp tục chứng kiến những sự thay đổi rất thú vị, ít nhất là cho đến nửa đầu năm 2013”.
Trên thực tế, tiếp nối tình trạng khó khăn năm 2011, từ đầu năm 2012 đến nay, những con số quá khiêm tốn vẫn tiếp tục được đưa ra: tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong 6 tháng đầu năm chỉ đạt 4,38% so với cùng kỳ năm ngoái, tín dụng của toàn bộ nền kinh tế hầu như không tăng trưởng, hơn 30.000 doanh nghiệp bị giải thể hay tạm ngừng hoạt động tính đến hết tháng 7.
Những kết quả đáng thất vọng này xuất phát từ bối cảnh khó khăn chung ở trong và ngoài nước và cũng từ những chiến lược phát triển non kém của các doanh nghiệp Việt trong một thập kỷ trở lại đây. Câu chuyện này đã được mổ xẻ một cách khách quan tại Hội nghị đầu tư 2012 với tên gọi “Căn bệnh thập kỷ của doanh nghiệp Việt Nam” do Tạp chí Nhịp cầu Đầu tư tổ chức ở cả TP.HCM lẫn Hà Nội vào trung tuần tháng 8.

Nô lệ của vốn ngân hàng

Bệnh đầu tiên được “thăm khám” là tình trạng lệ thuộc vốn ngân hàng của doanh nghiệp nội địa. Ông Võ Trí Thành tỏ ra e ngại về cơ cấu vốn của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Theo ông, các doanh nghiệp nước ngoài thường sử dụng tới 30% lợi nhuận để tái đầu tư, còn doanh nghiệp Việt Nam thì con số này rất thấp; họ chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng.
Ông Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc Chính sách Công, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, cũng đồng tình với quan điểm này. Theo ông, tỉ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu qua cuộc khảo sát 647 doanh nghiệp Việt Nam niêm yết trên thị trường chứng khoán trong quý II/2012 (đã loại trừ các ngân hàng và các công ty tài chính) là 1,53, cao hơn rất nhiều so với các công ty niêm yết tại Mỹ và Trung Quốc, với tỉ lệ lần lượt là 1,2 và 1,06.
Tình trạng vay nợ quá nhiều này đã diễn ra rộn ràng ngay từ đầu những năm 2000. Việc sử dụng đòn bẩy tài chính cao đã trở thành con dao hai lưỡi đối với các doanh nghiệp. Một mặt, nó góp phần gia tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp nếu khoản đầu tư có hiệu quả nhưng cũng sẽ xói mòn lợi nhuận nếu kinh doanh đi xuống. Đến khi Việt Nam đối mặt với khủng hoảng, mặt trái của đòn bẩy tài chính đã bộc lộ. Gánh nặng lãi vay, trong khi sản xuất đình đốn đã khiến một loạt các doanh nghiệp đang trên bờ vực phá sản, hình thành những xác chết lâm sàng, mà tiêu biểu gần đây là Công ty Thủy sản Bình An.
Theo thống kê của ông Xuân Thành, những ngành kinh doanh có tỉ lệ nợ/ vốn chủ sở hữu cao là xây dựng và bất động sản, năng lượng, nguyên vật liệu. Thấp nhất là ngành chế biến sản phẩm nông nghiệp và hàng tiêu dùng. Đây là minh chứng rõ nét cho chu kỳ kinh tế Việt Nam vừa qua gắn liền với cơn mê muội bất động sản.
Không chỉ khối tư nhân, các doanh nghiệp nhà nước cũng nợ đìa với tỉ lệ nợ/vốn chủ sở hữu trung bình là 1,71 (theo Bộ Tài chính). Đáng chú ý là những tập đoàn, tổng công ty lớn lại là những doanh nghiệp có tỉ lệ nợ/vốn chủ sở hữu khá cao như tập đoàn điện lực Việt Nam (tỉ lệ: 4,26), Sông Đà (8,85), Tập đoàn HUD (6,36), Petrolimex (6,29), Vinalines (4,27).
Và như một tất yếu, để đáp ứng nhu cầu vốn quá lớn của các doanh nghiệp, hệ thống ngân hàng đã không ngừng bành trướng về cả số lượng lẫn quy mô. Tính đến cuối năm 2011, quy mô vốn điều lệ của khối ngân hàng Việt Nam đã tăng hơn 9 lần so với cuối năm 2004. Tỉ lệ dư nợ tín dụng ngân hàng/GDP của Việt Nam trong các năm qua cũng tăng lên ở mức chóng mặt. Tỉ lệ này đã tăng từ mức thấp khoảng 40% vào những năm 2000 lên mức hơn 130% vào năm 2010; quá nhanh so với Philippines, Indonesia, Thái Lan và Malaysia.
Nguồn vốn dễ dãi cũng đã khuyến khích các doanh nghiệp nội địa đầu tư đa ngành vào những ngành nhiều rủi ro, nhạy cảm như bất động sản, chứng khoán và đã bị ảnh hưởng tiêu cực khi các lĩnh vực này đóng băng.
Và khi doanh nghiệp nguy khốn thì ngân hàng cũng lao đao. Dù trên báo cáo tài chính của nhiều ngân hàng, tỉ lệ nợ xấu vẫn không cao nhưng theo ông Xuân Thành, các khoản mục nợ xấu đã được ngân hàng che giấu và chuyển sang các hạng mục khác như khoản phải thu, tài sản khác và nợ khác, khiến cho các hạng mục này tăng lên rất nhanh (dựa trên so sánh báo cáo tài chính năm 2011 và 2010 của 37 ngân hàng).

Đa ngành tốt hay xấu?

Trong khi ông Xuân Thành lưu ý về đầu tư đa ngành không hiệu quả như là lý do để các doanh nghiệp phải vất vả ngày hôm nay thì ông Nguyễn Nam Sơn, Giám đốc Điều hành Quỹ Đầu tư Vietnam Capital Partners (VCP), lại đưa ra một cách nhìn cụ thể. Ông nói: “Hiện tượng đầu tư đa ngành diễn ra ở đa số các doanh nghiệp. Rất nhiều công ty lớn đầu tư vào ngân hàng, chứng khoán và bất động sản. Trong vòng 2 năm tới, theo tôi, có đến 90% công ty chứng khoán sẽ phải đóng cửa, chỉ có 5-7 công ty tồn tại lâu dài”.
Một ví dụ điển hình về hiệu quả hoạt động được ông Sơn đưa ra là hai công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI) và Chứng khoán Sacombank (SBS), trực thuộc ngân hàng Sacombank. Trong khi SSI tập trung vào các năng lực cốt lõi của mình là quản trị rủi ro, tự doanh, quản lý tài sản, dịch vụ ngân hàng đầu tư, đội ngũ nghiên cứu mạnh, môi giới cho khách hàng cá nhân lẫn tổ chức thì SBS lại làm ngược lại. Hệ quả là dù thị trường có khó khăn nhưng lợi nhuận của SSI không bị ảnh hưởng nhiều. Trong khi đó, SBS đã bị lỗ và công bố lỗ cả ngàn tỉ đồng kể từ cuối năm 2011.
Ví dụ thứ hai là công ty Kinh Đô và Vinamilk. Kinh Đô do đầu tư vào bất động sản thiếu hiệu quả nên sức phát triển đã bị giảm đáng kể trong những năm gần đây. Ước tính từ năm 2007 đến nay, Kinh Đô đã rót khoảng 13% tổng tài sản vào các dự án bất động sản. Hiệu quả sử dụng vốn thể hiện qua chỉ số lợi nhuận/vốn (ROE) của Kinh Đô hiện chưa tới 10%, xấp xỉ mức của năm 2007. Trong khi đó, tính từ năm 2007 đến nay, chỉ số này của Vinamilk đã tăng gấp đôi, gần 40%.
Ông Nam Sơn cho rằng, sai lầm do đầu tư đa ngành bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Thứ nhất là Hội đồng Quản trị và Ban điều hành hoạt động thiếu hiệu quả do thiếu kinh nghiệm và kiến thức, lạm quyền và chưa có tính độc lập khi ra các quyết định. Thứ hai là không vạch ra được chiến lược đầu tư và tài chính dài hạn, không am hiểu thị trường mình kinh doanh.
Một góc nhìn nhỏ để chứng minh cho luận điểm trên là khi ông Nam Sơn so sánh mô hình Hội đồng Quản trị tiêu biểu của Công ty Capital Land (Singapore) với đa số các công ty Việt Nam. Dễ thấy là những người lãnh đạo Capital Land từ Chủ tịch cho tới Tổng Giám đốc đều hơn 60 tuổi. Họ hầu hết đều có bằng cấp trung bình là Thạc sĩ hoặc Tiến sĩ kinh tế đồng thời có nhiều năm làm việc cho các tập đoàn toàn cầu như Shell, ngân hàng Goldman Sachs, Deutsche Bank. Trong khi đó ở Việt Nam, hầu hết các thành viên lãnh đạo đều ở độ tuổi trung bình là 32, chưa có kinh nghiệm làm việc ở môi trường tài chính toàn cầu hoặc tốt nghiệp những ngành không liên quan đến tài chính và làm việc nhờ ưu thế người thân của lãnh đạo cấp cao.

Theo nhipcaudautu